Thuốc Nam, thuốc Bắc không lành như ta tưởng
Gần đây, tình trạng ngộ độc liên tiếp xảy ra do sử dụng thuốc Nam, thuốc Bắc ở nhiều nơi, đặc biệt là trường hợp hai cháu bé tại Nam Định uống thuốc bổ của bà lang bị ngộ độc. Thuốc Nam hoặc thuốc Bắc đều được bào chế từ các nguồn động thực vật để trở thành dược liệu. Thuốc Nam hoặc thuốc Bắc đều được bào chế từ các nguồn động thực vật để trở thành dược liệu...
Gần đây, tình trạng ngộ độc liên tiếp xảy ra do sử dụng thuốc Nam, thuốc Bắc ở nhiều nơi, đặc biệt là trường hợp hai cháu bé tại Nam Định uống thuốc bổ của bà lang bị ngộ độc.
->> Vì sao dùng thuốc Đông y lại ngộ độc chì?
Thuốc Nam hoặc thuốc Bắc đều được bào chế từ các nguồn động thực vật để trở thành dược liệu. Người ta sử dụng những thành phần có lợi trong dược liệu để trị liệu và bồi bổ sức khỏe. Bên cạnh đó, chúng lại có những độc chất khác chứa trong cùng một loại dược liệu. Mặc dù đã áp dụng các phương pháp khử độc hoặc làm giảm độc trong quá trình bào chế thành dược liệu, tuy nhiên, nếu lạm dụng liều quá ngưỡng cho phép vẫn có thể gây độc. Đó là chưa nói tới nguồn thực vật sử dụng chế biến dược liệu còn để lại dư chất là độc tố của thuốc trừ sâu hay chất bảo quản dược liệu sau chế biến hoặc dược liệu bị mốc có cả các nấm mốc gây độc…
Cũng như thuốc Tây y, thuốc Nam, thuốc Bắc cũng có những vị có độc tính. |
Các vị thuốc chứa chất độc
Một số vị thuốc Nam, thuốc Bắc độc dùng trong trị liệu như nhân ngôn, thạch tín, cà độc dược, phụ tử, mã tiền… đều là những vị thuốc có độc tính cao được sử dụng trong các thang thuốc.
Chất độc vô cơ như thạch tín (arsenic), là chất được dùng làm thuốc kích thích tủy xương để tạo máu với liều nhỏ, nhưng khi sử dụng liều cao lại gây độc mà rất khó bị phân hủy.
Chất độc hữu cơ gặp ở các dạng tự nhiên, trong cây cỏ như cà độc dược, tam thất, lá ngón... các chế phẩm từ thuốc phiện cũng được dùng trong y tế dưới dạng hoạt chất như morphin... mà trong thuốc Đông y cũng có dùng dạng thuốc phiện để trị bệnh. Mã tiền liều thấp có công hiệu làm cường kiện cơ (tăng trương lực cơ), nhưng là cây rất độc vì cây có chất gelmicine giống chất strychnine nên dùng quá liều sẽ gây ngộ độc. Cà độc dược được chế thành atropine và benladone, cả hai loại này đều xếp vào độc bảng A. Trong Đông y cũng dùng chúng để trị bệnh.
Đặc biệt là cây trúc đào (nerium oleanderi), mọi thành phần của cây đều độc vì có chất oleanderi và neriolin được sử dụng làm thuốc. Có trường hợp mù mắt do nhựa trúc đào, cành trúc đào làm que xiên thịt nướng, khi ăn thịt sẽ bị ngộ độc.
Cây hoa đỗ quyên vừa dùng làm thuốc trị bệnh, song có chứa chất độc, nếu lạm dụng cũng gây ngộ độc. Cây mao địa hoàng (digitalis purpurea), cho chất digoxin chữa trị bệnh tim, nếu uống quá liều cũng bị ngộ độc.
Mật cũng có thể gây độc nếu như loại mật này được lấy từ các loài hoa độc (lim, bạch đàn...) và trong đó có một số loại độc chất chưa phân lập được nếu ăn nhiều sẽ gây độc (say mật).
Ngay cả nhân sâm, nếu sử dụng không đúng cũng bị ngộ độc hoặc gây tử vong. Mặc dù Đông y cho rằng, sâm là một vị thuốc đại bổ nguyên khí, phục mạch, cố thoát, bổ tỳ ích phế, sinh tân, an thần. Nhưng khi lạm dụng hoặc dùng không đúng mục đích cũng gây nguy hiểm chết người. Nên người xưa có dặn: “Phúc thống phục nhân sâm tắc tử” (người đau bụng do hư hàn uống nhân sâm có thể chết). Khi dùng nhân sâm cần lưu ý: người có bệnh thực nhiệt và thấp nhiệt không nên dùng; khi dùng nhân sâm phải bỏ cuống sâm đi, vì nó dễ gây nôn mửa; không dùng đồ sắt để cắt, nấu nhân sâm; suyễn khạc ho do khí ủng trệ, đờm thực nhiều thì không dùng; các chứng đau do thực (đau bụng cứng, sờ vào đau thêm) không nên dùng; khi phối hợp với các vị thuốc khác phải tránh dùng với lê lô (tương phản là phản lại nhau), ngũ linh chi (tương úy tức là sợ nhau), bồ kết (tương ố tức là ghét nhau) sẽ có hại…
Để đảm bảo an toàn, người dân cần bốc thuốc tại cơ sở YHCT tin cậy. Ảnh: Phương An |
Và việc sử dụng không đúng
Đó là mới dẫn một trong số các vị thuốc có thể gây độc, chứ chưa nói đến khi sử dụng không đúng mục đích trong thang thuốc khiến có thể gây tử vong như trong y thư nói: “Hàn ngộ hàn tắc tử” nghĩa là khi cơ thể đã hàn mà lại sử dụng các vị thuốc mang tính hàn, đương nhiên hàn sẽ tăng lên bội phần dẫn đến chết! Chẳng hạn, khi hàn phải dùng ôn pháp để làm ấm nóng cho người bệnh. Vậy phải dùng các loại thuốc ấm nóng để chữa các chứng hư hàn, quyết lảnh hồi dương cứu nghịch. Trên lâm sàng thường dùng các vị thuốc như: nhân sâm, phụ tử, nhục quế, sanh cương. Hay “Nhiệt ngộ nhiệt tắc cuồng” ý nói là cơ địa người bệnh đã nhiệt mà lại sử dụng những vị thuốc mang tính nóng ắt sẽ làm cho người bệnh sinh điên! Ví dụ như mắc chứng can phong nội đồng do nhiệt thịnh, cần dùng câu đằng với linh dương giác, cúc hoa, thạch cao thì lại dùng phụ tử, nhục quế, sanh cương… Dùng hoàng bá thuốc giáng hỏa, hay huyền sâm.
Còn khi lập thang thuốc mà có những vị đối kháng trong cùng một thang là có thể xảy ra sự tương tác bất lợi như vị thuốc này kìm hãm hay làm giảm tác dụng của một hoặc nhiều vị khác có cùng thang, thậm chí sự tương tác còn có thể tạo thành chất độc… như vậy sẽ không đạt mục đích điều trị khỏi bệnh, mà còn gây hại cho cơ thể người bệnh và dẫn đến tử vong.
Hoặc bắt không đúng bệnh, như người bệnh bị âm hư thì phải bổ âm hoặc nâng âm hạ dương để cho âm dương cân bằng…
(Theo BS.TUẤN LINH // Suckhoe & Doi song)