hotline Hotline: 0977 096 677

Sốc nhiễm trùng nguy hiểm hơn bạn nghĩ

Nhiễm trùng đường tiêu hóa cũng là một nguyên nhân gây sốc nhiễm trùng, trong đó viêm gan, mật, đặc biệt chú ý là viêm đường dẫn mật

Sốc nhiễm trùng là một bệnh rất nặng, không đơn giản như bạn nghĩ. Bởi vì, đó là biến chứng của bệnh nhiễm trùng, nếu không phát hiện sớm và xử trí kịp thời có thể gây nguy hiểm cho tính mạng người bệnh.

Nguyên nhân

Sốc nhiễm trùng xảy ra chủ yếu do nhiễm trùng một cơ quan, bộ phận nào đó trong cơ thể, tác nhân gây bệnh là vi sinh vật (vi khuẩn, vi nấm, virút), trong đó có thể gặp nhiễm trùng tiết niệu do sỏi (sỏi thận, niệu quản, bàng quang) hoặc do thủ thuật thuộc đường tiết niệu (mổ lấy sỏi, tán sỏi, nong niệu đạo), nhiễm trùng các bộ phận lân cận lây lan sang hệ tiết niệu như: viêm tiền liệt tuyến (nam giới), viêm phần phụ (nữ giới).

Nhiễm trùng đường tiêu hóa cũng là một nguyên nhân gây sốc nhiễm trùng, trong đó viêm gan, mật, đặc biệt chú ý là viêm đường dẫn mật, viêm túi mật do nhiễm trùng ngược dòng hoặc từ máu đi tới hoặc viêm do sỏi hoặc do giun chui ống mật. Sỏi đường mật, sỏi túi mật gây viêm đường dẫn mật, túi mật rất dễ gây các biến chứng, trong đó nhiễm trùng phúc mạc là hết sức nguy hiểm dễ dẫn đến nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng.

Khi người bệnh bị tụt huyết áp, cần nâng huyết áp bằng cách truyền dịch và dùng thuốc

Ở nữ giới, các thủ thuật nạo phá thai, đặc biệt là nạo phá thai không đảm bảo vô trùng tuyệt đối (phá thai chui), đẻ khó cũng là những nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết gây sốc nhiễm trùng. Ngoài ra còn có thể gặp sốc nhiễm trùng gây ra bởi nhiễm trùng bệnh viện bởi các thủ thuật như: nong niệu đạo, thông đái, nong cổ tử cung, nội soi phế quản, màng bụng, đặt catheter tĩnh mạch. Nhiễm trùng ngoài da (mụn nhọt, chốc lở hoặc nhiễm trùng bỏng) hoặc các ổ áp-xe (áp-xe cơ hoành, áp-xe cơ, áp-xe phổi) là những loại nhiễm trùng rất dễ dẫn đến nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Tác nhân gây sốc nhiễm trùng hay gặp nhất các loại vi khuẩn đường ruột (E.coli, liên cầu đường ruột), trực khuẩn mủ xanh, tụ cầu, vi khuẩn kỵ khí. Trong đó, đáng sợ nhất là sốc bởi vi khuẩn đường ruột hoặc trực khuẩn mủ xanh hoặc tụ cầu vàng vì độc tố mạnh và đa kháng kháng sinh.

Biểu hiện của bệnh

Thường xuất hiện sau nột cơn sốt cao, rét run hoặc hạ thân nhiệt đột ngột (có trường hợp không sốt hoặc thân nhiệt giảm dưới 37oC), đồng thời có nhịp tim nhanh, thở nhanh, kích thích, giãy dụa hoặc mất định hướng, tứ chi lạnh, nổi vân đá ở da đầu gối (vằn hổ), thiểu niệu do rối loạn tuần hoàn thận. Thông thường giai đoạn đầu do tăng cường hoạt tính giải phóng histamine làm giãn mạch, da khô, nóng, đầu chi ấm (còn gọi là sốc nóng).

Sau đó các đầu chi, da lạnh do co mạch ngoại biên, móng tay, mũi, tai tím tái, trên da xuất hiện các mảng tím và chi (gọi là sốc lạnh). Nếu nặng có thể hoại tử trên da, ấn vào da màu sắc da không phục hồi ngay (do truỵ mạch ngoại biên) trước khi có mảng xám.

Triệu chứng hạ huyết áp vẫn thường thấy nhưng xuất hiện chậm hơn do ở giai đoạn đầu cơ thể còn có khả năng bù trừ (ở gia đoạn đầu của sốc, huyết áp có thể tăng, dễ làm sai lệch chẩn đoán). Đồng thời mạch nhanh (trên 90 lần/phút), nhỏ, khó bắt hoặc bị rối loạn vận mạch (mạch lúc nhanh, lúc chậm), tay chân lạnh (đầu chi, gan bàn chân, bàn tay). Người bệnh tiểu ít (có thể do sốt hoặc có thể ảnh hưởng mạch máu thận làm giảm áp lực lọc ở cầu thận) hoặc vô niệu (suy thận cấp). Có thể xuất hiện phù, bụng trướng,

Hầu hết bệnh nhân tỉnh, chỉ vật vã, lo lắng, thở nhanh. Nếu sốc nhiễm trùng phát hiện và xử trí quá muộn có thể bị hôn mê do thiếu oxy não quá lâu và tử vong.

Một số trường hợp có đau cơ dữ dội, lan tỏa, chuột rút, do thiếu oxy tổ chức (có thể nhầm với các bệnh ngoại khoa, uốn ván…). Trong trường hợp có tổn thương phổi cấp, xuất tiết màng phổi gây khó thở từ nhẹ đến nặng.

Xét nghiệm máu sẽ thấy bạch cầu tăng cao (trên 12.000/ml hoặc có thể giảm dưới 4000/ml). Số lượng bạch cầu có thể không tăng nhưng bạch cầu đa nhân và bạch cầu non tăng >10%, tiểu cầu giảm (dưới 100.000/µl). Phản ứng CPR dương tính. Tăng đường huyết, men gan (SGOP. SGPT, GGT), bilirubin (bilirubin toàn phần > 4 mg/dl hoặc 70 µmol/l), creatin tăng (> 0,5 mg /dl hoặc 44,2 µmol/l), urê máu tăng. Cấy máu có thể xác định được vi khuẩn hoặc vi nấm gây bệnh.

Nguyên tắc điều trị và dự phòng

Các biện pháp nhằm nâng huyết áp khi huyết áp tụt cần được lưu ý hàng đầu, bằng cách truyền dịch và thuốc nâng huyết áp (nếu thấy cần thiết). Điều trị chống nhiễm trùng là công việc không thể thiếu được bằng hình thức dùng kháng sinh theo phác đồ của Bộ Y tế. Nếu sốc nhiễm trùng không rõ nguồn gốc có thể dùng Meropenem hoặc Piperacillindo; nếu có cấy máu tìm vi khuẩn thì nên dùng kháng sinh thích hợp với từng loại vi khuẩn, ví dụ, căn nguyên vi khuẩn là S.pneumoniae hoặc H.influenzae, K.pnemoniae, hoặc tụ cầu thì dùng Ceftriaxone… Sau khi có kết quả kháng sinh đồ thì nên dựa vào đó để lựa chọn kháng sinh thích hợp nhất.

Lời khuyên của thầy thuốc

Để tránh mắc sốc nhiễm trùng, cần điều trị tích cực khi mắc một bệnh nhiễm trùng nào đó (hô hấp, tiêu hóa, ngoài da, áp-xe…), không chữa trị dở dang hoặc dùng thuốc không đúng chỉ định của bác sĩ khám bệnh.

Theo SKDS

Thymomodulin - Davinmo - Dược phẩm Davinci Pháp
Siro Davinmo - Một sản phẩm có Thymomodulin là thành phần chính 
 

 

1001 Mẹo vặt

Cách phân biệt rượu ngoại thật, giả

Tết Nguyên đán đang đến gần, nhiều người muốn mua một vài chai rượu ngoại để đi biếu hoặc dùng tiếp khách cho lịch sự. Thế nhưng, nếu không biết thì vô tình chúng ta bỏ tiền thật mua rượu giả và ít nhiều còn ảnh hưởng tới sức khoẻ.

Món ngon 365 ngày

Món ngon bông mỏ quạ

Mỗi lần trời đất âm u là tôi lại buồn thấu ruột thấu gan. Đó là lúc đất trời sắp chuyển giao từ mừa nắng sang mùa mưa, mà người dân miền Tây Nam bộ gọi là “sa mưa”. Rồi những cơn mưa đầu mùa ào ạt đổ xuống, đất đai thêm màu mỡ. Mưa tắm gội cây trái khắp nơi xanh màu, cũng là lúc những dây mỏ quạ héo khô xanh tốt trở lại, bò quấn thân cành mấy cây ăn trái trong vườn.

Sử dụng thuốc nên biết

Tầm quan trọng của vitamin D3 với cơ thể con người

Theo ước tính của các chuyên gia, 40-50% dân số trên thế giới thiếu vitamin D. Nghiên cứu ở Thái Lan và Mã Lai cho thấy cứ 100 người thì có khoảng 50 người thiếu vitamin D. Riêng ở Nhật và Hàn Quốc, tỉ lệ thiếu vitamin D lên đến 80-90%.

Dược phẩm   Y học   Sức khỏe   Thuốc đặc trị   Thuốc bổ   Thực phẩm chức năng    Cẩm nang thuốc     Thuốc tân dược    Thuốc đông y    Hỏi đáp về thuốc     Chăm sóc trẻ    Mang thai     Bà bầu    Tình dục    Phòng khám    Tin tức    Cuộc sống 24h    Giúp cơ thể tăng sức đề kháng    Tuần hoàn não    Trẻ phát triển chiều cao     Trái tim khỏe mạnh     Men tiêu hóa trẻ em    Giải độc gan    Bảo vệ gan  Phát triển trí não cho bé    Còi xương  Loãng xương    Xương khớp    Tăng cường trí nhớ     Trẻ biếng ăn Trẻ lười ăn    Trẻ nhác ăn    Trẻ em  ho    Trẻ chậm lớn Vitamin    Chậm lớn    Chậm phát triển Đau đầuChóng mặt Bài thuốc dân gian  Phòng khám đa khoa  Phòng khám nhi  Phòng khám da liễu  Viêm họng  Đau mắt  Dinh dưỡng  Đau lưng   Người cao tuổi    Nitroglycerin     Nifedipin Nefazodon   Nabumeton Nafarilin     Metoprolol    Metoclopramid   Methotrexat    Mesalamin    Medroxy progesteron     Meclophenamat Ung thư